Chuyện phố đổi sang địa chỉ mới "chuyenpho2.blogspot.com"

16/5/14

Nhìn lại Huế từ dặm dài Ô Lý


1. Có hay không một vương quốc Champa thống nhất


Có lẽ cũng đã đến lúc chúng ta dừng lại việc nhìn nhận vùng đất Trung bộ và nam Trung bộ Việt Nam, như những loại "chiến lợi phẩm" trong cuộc đối đầu giữa Đại Việt với một vương quốc Champa lân bang, nguyên vẹn và thống nhất trong lịch sử.
Một thời, việc nghiên cứu Champa với tư cách là một vương quốc tập quyền hình thành vào năm 192 và trải dài trong suốt nhiều thế kỷ đầu Công nguyên của Trung Quốc, như Thuỷ Kinh Chú, Lâm Ấp Ký, Tiền Hán Thư, Hậu Hán Thư, Đường Thư,... đã trở thành những nguồn tài liệu quan trọng, dẫn dắt các nhà nghiên cứu nhiều nước xích lại gần nhau trong quá trình biện dẫn sự ra đời của nhà nước Lâm Ấp từ cuộc nổi dậy của Khu Liên, nhân vật (nhóm người?) đã giành độc lập từ tay nhà Hán ở vùng đất Nhật Nam xa xôi so với tầm tay quản lý của "thiên triều".
Những khuôn mặt Champa học lớn ở phương Tây như H.Maspéro, L. Aurousseau, E.Aymonier, L.Finot, H.Parmentir, G.Coedès, J.Y. Clayes, R. Stein với những lập luận ít nhiều có tính xác quyết tiến trình hình thành nhà nước Champa, đã ảnh hưởng không nhỏ đến các học giả ở trong nước lẫn các nhà chuyên môn thuộc lớp hậu duệ ở Bắc Mỹ, Đông Á  và châu Âu sau này.
Sự hình dung ít có nghi vấn về một vương quốc có tên Lâm Ấp (192-758) à Hoàn Vương (758-866) à Chiêm Thành (886-1471) à Champa, thống nhất từ đèo Ngang đến hết vùng nam Trung bộ với tộc người Chăm chủ thể thuộc ngữ hệ Malayo-Polynesie, đã trở thành đầu mối cho những lập luận có liên quan đến nhiều công trình nghiên cứu về nhân học, lịch sử, chính trị, khảo cổ, kiến trúc, nghệ thuật học về Champa.
Trong chừng một vài thập niên trở lại đây, với sự bổ sung của nhiều nguồn tư liệu, nhất là sự mở rộng đối sánh theo dạng cấu trúc mô hình xã hội trên phạm vi khu vực Đông Nam Á của các nhà khoa học, cùng với những thông tin được giải mã một cách hợp lý giữa nội dung một số văn khắc cũng như các hiện vật khảo cổ học mới phát hiện bổ sung..., một số tác giả như B. Bronson, R. Hall, O.W. Wolter, R.Nakamura ....[1] và gần đây nhất William Southworth trong luận án tiến sĩ (2001) với đề tài The Origins of Champa in Central VietNam (Những nguồn gốc của Champa tại miền Trung Việt Nam) hoặc Le Vietnam des Royaumes (Việt Nam những vương quốc)[2] đã có những nhận định làm cho việc nghiên cứu Champa và dải đất Trung bộ- nam Trung bộ và Tây Nguyên đương thời cần phải được nhìn nhận lại.
Có thể nói một cách không ngần ngại là chưa có một tài liệu nào chứng minh được một cách thuyết phục sự hiện hữu của Champa trong lịch sử với tư cách là vương quốc thống nhất, với sự quản lý tập quyền từ một kinh đô duy nhất, mà ngược lại, người ta chỉ có thể nhận ra ở đây chân dung của sự sống chung, phân ly, liên kết, thống trị, bị trị, cát cứ, độc lập tương đối... giữa nhiều tiểu quốc, bao gồm không ít những tộc người có nguồn gốc và ngữ hệ khác nhau. Mô hình Mandala (tiểu quốc) mà các tài liệu phương Tây thường gọi là Circles of kings, là một tổ chức nhà nước dưới những cấp độ về quy mô và có cấu trúc kinh tế-xã hội-chính trị- thần quyền khá phổ biến ở vùng sử liệu, kể cả văn khắc bi ký của từng triều đại, chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy thông tin liên quan đến các thị tộc Cau-Dừa, dòng Núi-dòng Biển, Bắc Chăm, Nam Chăm, các tên gọi chỉ cương vực địa lý chính trị như Amaravati, Indrapura, Vijaya, Kauthara, Panduranga... với sự tôn vinh và ngợi ca các vị thần toả ảnh hưởng trong lãnh địa của mình. Những dấu hỏi về Phù Nam, vương quốc Mạ ở thượng nguồn sông Đồng Nai, hàng loạt di tích Án giáo ở Tây Nguyên, vương quốc Koom và nhóm Katuic ở miền núi Trung bộ, đều tỏ ra, ít nhất, là trong những thông tin hiện có, không hề biểu thị bất cứ tính liên kết hữu cơ máu thịt nào với một vương quốc mẹ trong một thể thống nhất.
Với xu hướng mới trong việc tiếp cận nghiên cứu vùng đất Champa xưa như đã nêu, ngày càng có nhiều công trình đề cập đến những lập luận thuyết phục hơn về hình ảnh các tiểu quốc sống song song tồn tại bên nhau với những thăng trầm và đầy biến động; có thời kỳ một tiểu quốc đủ sức mạnh bành trướng thế lực, lại khống chế những tiểu quốc khác, và khu lịch sử sang trang, hiện tượng ấy có thể bị đảo ngược. Chính vì vậy, các thuật ngữ như Raja, Campadhipa, Haharaja, Rajadhiraja... trong bi ký Chăm nhằm chỉ thị uy quyền được tôn vinh: vua, vua vĩ đại, vua của các vị vua như một cách xác định thế lực của từng tiểu quốc trong những thời điểm cụ thể.
Chúng ta có thể xem triều đại Indrapura trong lịch sử là một thí dụ dẫn chứng. Ảnh hưởng của Indravarman I, người đăng quang và khai sáng triều đại Indrapura (875-972) đã toả ảnh hưởng của mình từ nam Quảng Nam đến tận Quảng Bình với một tiểu quốc gồm nhiều tiểu quốc bị khống chế, tạo nên dấu ấn Phật giáo khá đậm nét trong lịch sử.
2. Ô Lý trong cuộc chuyển dịch về phương Nam của người Việt
Trong lịch sử phong kiến luôn phản ánh chất đa sách lược của Đại Việt trong bang giao với các nước lân bang, lẫn cả trong đối nội với những khu tự trị ở các tộc người thiểu số: phủ dụ, trừng phạt, răn đe, liên kết hữu nghị, bắt cầu su gia... Ô và Lý là món sính lễ có được giữa Sihavarman III (Chế Mân) và Trần Anh Tôn qua chuyến viễn du công cán dài ngày trên vùng đất Chăm của Trần Nhân Tôn, tất cả chỉ là hệ quả của thực tế không cưỡng lại được, đó là sự đối trọng không cân xứng giữa một nhà nước quân chủ tập quyền, tồn tại trên cơ sở nông nghiệp với những tiểu quốc lấy thương nghiệp trao đổi làm trụ cột. Giáo sĩ và thương nhân ở các tiểu quốc là hai thế lực làm chủ những cửa sông lẫn biển và phát huy uy lực bằng kinh tế hàng hoá, mỗi cửa cảng chịu sự quản lý của một tiểu vương mà cương vực của ông ta được xác lập trên một trục theo dạng cấu trúc cảng biển, sông thiêng, núi thiêng, đất thiêng với tính chất này, đã làm sự gắn bó giữa họ, kẻ nắm quyền lực trong tay với đất đai không mặn mà như người làm nông và những vương quốc lấy nông nghiệp làm trọng. Đất hứa của những người có quyền lực ở những tiểu quốc Chăm là sản vật, hàng hoá, thị trường và mãi lực... Cho nên, họ sẵn sàng ra đi với gia sản gọn nhẹ trên chiếc thuyền buôn, để tìm một thị trường ổn định hơn khi tình hình chính trị, quân sự không còn thuận lợi cho nghề nghiệp kinh doanh của họ. Kẻ ở lại là những người nông dân, dễ dàng hoà nhập với người đến sau trong điều kiện đất rộng người thưa. Những di tích Ấn Độ giáo, lễ vật tạ ơn từ những món lợi nhuận của giới thương nhân quý tộc là những đền tháp và di tích tôn giáo khác cũng chóng trở thành những điểm "kính nhi viễn chi" trong quan niệm của họ. Sự kế thừa tiếp nối việc thờ cúng đã vì thế không xảy ra, mặc dù, cuộc bàn giao hữu nghị vùng Ô, Lý cho Đại Việt đã không tạo nên sự xáo trộn dân cư lớn. Tài liệu Thỉ Thiên Tự của Bùi Trành vào đầu thế kỷ XV ở vùng Trị Thiên mà chúng tôi có dịp công bố đã cho chúng ta hình dung được hiện tượng này[3].
Đền thờ Huyền Trân Công Chúa tại núi Ngũ Phong, thôn Ngũ Tây, xã Thủy An, TP Huế

Đôi rồng trong đền, được xem là lớn nhất Việt Nam
Cuộc chuyến dịch dân cư về phía Nam của người Việt từ bối cảnh này chẳng quá khó để giải thích tại sao lại nhanh chóng và yên ả đến thế.
Trong bài viết khá thuyết phục “Bước đầu xác định danh hiệu các tiểu quốc miền Bắc vương quốc cổ Chiêm Thành khoảng giữa thế kỷ 11-15” của Trần Kỳ Phương[4] đã cho chúng ta thấy ít nhất có 6 tiểu quốc tồn tại ở Bắc miền Trung vào thời kỳ này: Vijaya (Bình Định), Amaravati (Quảng Nam), Ulik (Trị Thiên), Jriy (Đồng Hới) và Traik (Bố Trạch-Quảng Bình).
Ulick mà sau này sử Việt đổi là Ô Lý chính là một trong những tiểu quốc nằm trong vùng khống chế của Simhavarman III đã được bàn giao cho người Việt một cách nhẹ nhàng mà Huyền Trân công chúa, trong trường hợp này, đã là hoặc chỉ để làm thi vị hoá, lãng mạn hoá một sự kiện chính trị và bang giao không thể thay đổi của tình hình đương thời. Việc trở lại Thăng Long và không lên dàn hoả thiêu cùng chồng đã tự nó giải thích ý nghĩa tình huống bi ai này. Nhưng dù sao Huyền Trân vẫn là một nhân vật lịch sử làm cho vận mệnh đất nước nói chung và xứ Huế có được một giai thoại đẹp đẽ, thi vị, thơ mộng như chính cảnh sắc và con người nơi đây.
Nguyễn Hữu Thông
(Trích trong 700 năm Thuận Hoá-Phú Xuân-Thừa Thiên Huế)



[1] Xem các tài liệu:
- Bronson. B (1977), Exchange at the Upstream and Downstream Ends: Note Toward a Funtional Model of the Coastal State in Southeast Asia: Perspectives from Prehistory, History and Ethnography [Huteerer, Karl L.ed]. Ann Anbor: Center for South and Southeast Asia Studies. The University of Michigan. USA.
-Hall R.K (1999), Maritime Trade and Early State Development in Southeast Asia, Honolulu: University Washington: Departent of Anthropology.
-Nakamura Rie (1999), Cham in Vietnam: Dynamics of Ethnicity (Ph.D dissertation) University Washington, Department of Anthropology.
-Wolter O.W (1982), History, Culture and Religion in Southeast Asia Perspective, Singapore: Istitute of Southeast Asia Studies.
-Schweryer A.V (1999), La vaisselle en argent de la dynastie d'Indrapura (Quang Nam-Vietnam), Bulletin de I'Ecole Francaise d' Extreme-Orient.
-R.C. Majimdar (1985), Champa: History and Culture of an Indian colonial kinhdom in the Far East 2sd-16th century AD, Dehli: Gian Publisher House.
-"Champa", trong The Cambridge History of Southeast Asia, vol. 1 [From Early time to C. 1800], Cambrdge: Cambrdge University Press.

[2] Cercle d'Art (1995), Le Viet Nam des Royaumes, Paris: Cercle d'Art. và William A.Southworth (2001), The Origins of Champa in Central Vietnam (A preliminary Review), London: The School of Oriental & Africa Studies (SOAS).

[3] Nguyễn Hữu Thông (1996), "Bức tranh cư dân vùng Thuận Hoá đầu thế kỷ XV qua văn bản Thi thiên tự", T/c Thông tin Khoa học Công nghệ& Môi trường Thừa Thiên Huế, số 04.

[4] Trần Kỳ Phương (2005), "Bước đầu xác định danh hiệu các tiểu quốc miền Bắc vương quốc cổ Chiêm Thành khoảng giữa thế kỷ 11-15", T/c Nghiên cứu & Phát triển, Huế: Sở Khoa học&Công Nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế, số 1.

0 bình luận :