Đến Đồng Văn, Hà Giang, không thể không đến thăm một địa
điểm ghi dấu thời kỳ vàng son của con người từng bá chủ một vùng cao nguyên đá
rộng lớn với vô vàn huyền tích bao quanh, đó là di tích lịch sử nhà Vương, hay
được dân gian quen gọi là dinh thự vua Mèo.
Huyền thoại cao nguyên
Dinh thự được xây dựng trong lòng thung lũng Sà Phìn, bao
quanh là dãy núi đá chỏm nhọn hoắt với những con đường vắt vẻo, quanh co tựa
như một sợi chỉ trắng mỏng manh trên bức tranh thêu nhiều màu sắc. Giữa thung
lũng quanh năm mây mù bao phủ, nằm trên tuyến đường chông gai, xa xôi nơi cực
bắc tổ quốc này, khu dinh thự đồ sộ có kiến trúc vương giả, thành quách kiên cố
với rừng sa mộc hùng dũng vươn lên cao vút tận mây trời là minh chứng hùng hồn
cho quyền lực và sức mạnh độc tôn của “vua Mèo”.
Dinh thự vua Mèo nằm trong lòng thung lũng Sà Phìn quanh năm mây phủ |
Vị “vua Mèo” Vàng Dúng Lùng - tên theo âm Hán-Việt là Vương Chính
Đức - được đồng bào dân tộc Mông tôn là vua. Sau này, người ta thường nhầm
lẫn quy địa vị này cho con trai thứ của ông - Vàng Chí Sình, nhưng chính hậu
duệ của ông khẳng định rằng, chỉ có Vương Chính Đức mới được người Mèo nơi đây
ngưỡng mộ và suy tôn là vị vua duy nhất. Xung quanh ông có rất nhiều câu chuyện
huyền thoại, kỳ bí tựa như lớp mây mù bao phủ quanh vùng đồi núi hiểm trở này
vậy. Bên cạnh tài trí hơn người, ông còn được cho là Vương Chính Đức có… phép
thuật, biết sử dụng tà đạo để thuyết dụ dân chúng.
Ông Vương Chính Đức (ngồi giữa) cùng con cháu và quân lính (Ảnh chụp lại từ di tích) |
Thực tế, Vương Chính Đức là một người thông minh, tài trí
hơn người, thổi khèn hay và có khả năng thu phục lòng người. Sinh năm 1865, đến
năm 1900, ông đã chỉ huy nghĩa quân Mông chiếm cứ một vùng núi cao, rừng rậm,
lập nên “nghĩa binh hươu nai” đương đầu với giặc Cờ Đen và tiêu diệt chúng,
giành Đồng Văn vào tay người Mông. Sau đó, ông tiếp tục chỉ huy nghĩa quân
kháng Pháp và chiến đấu chống lại âm mưu xâm chiếm của nhà Thanh. Trong 9 năm,
từ 1900 đến 1909, nghĩa binh hươu nai đã chiến đấu một mất một còn với những
đợt tấn công liên tục của đội quân Pháp, song thua trận buộc phải nhường Đồng
Văn cho Pháp. Không chịu bại trận, Vương Chính Đức tiếp tục tuyển mộ binh sĩ,
rèn luyện và đánh Pháp trong 4 năm ròng cho đến khi giành được thắng lợi vang
dội vào năm 1913. Trước sức mạnh áp đảo của đội quân này, Pháp đã phải ký Hòa
ước Pháp - Mèo với nhiều điều khoản có lợi cho người Mèo. Theo Hòa ước,
Pháp phải triệt thoái quân đội khỏi Đồng Văn, trả Đồng Văn cho người Mông
cai quản bằng chế độ tự trị. Muốn thu mua thuốc phiện, các đại lý thuốc phiện
Pháp phải tăng giá lên 5 lần, từ 2 hào lên 1 đồng cho mỗi lạng (tính theo đơn
vị cân vàng).
Sau khi ký Hòa ước, Vương Chính Đức gần như trở thành vị
thánh sống của vùng, độc chiếm nguồn lợi thuốc phiện trên toàn xứ Đồng Văn.
Khi Vương Chính Đức qua đời, ông giao cơ nghiệp lại cho
người con thứ là Vàng Chí Sình (sinh năm 1885).
Vàng Chí Sình sau này đi theo cách mạng, kết nghĩa với Hồ Chủ tịch. Trong “Tuần
lễ vàng” do Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa phát động, Vàng Chí Sình đã
cho vận chuyển về Hà Nội 22 vạn đồng bạc trắng và 9 kg vàng để ủng hộ
chính phủ Cụ Hồ.
Một thời vang bóng
Dinh thự vua Mèo được giữ lại đến ngày nay, để người đời sau
ngưỡng mộ và nể phục vị vua tinh thần của người Mông từng một thời vang bóng.
Ai đã từng đến thung lũng Sà Phìn không thể không choáng ngợp trước quần thể di
tích được xây dựng với chi phí là 150.000 đồng bạc trắng, mà tính theo thời giá
hiện tại, chưa kể công sá, phải lên tới gần 40 tỷ đồng.
Chất “chơi” của vị vua này phải kể đến việc ông thuê thợ tận
Quảng Tây, Trung Quốc xây dựng tòa lâu đài tới 64 phòng tất thảy bằng đá khối
và gỗ sa mộc. Cùng với những người thợ Mông lành nghề bậc nhất thời bấy giờ,
dinh thự được chăm chút từng chi tiết, tạo nên kiến trúc độc đáo, pha trộn giữa
những nét đặc trưng của kiến trúc nhà Thanh, Trung Quốc vừa nổi bật vẻ độc đáo
của nhà người Mông Việt Nam.
Chi tiết trang trí có hình chim bay và phù điêu phượng hoàng triển dực chạm khắc tinh tế |
Các nguyên vật liệu đá, gỗ và ngói lợp cũng được vận chuyển
từ Quảng Tây, cho nên công trình mất tới 8 năm không liên tục để hoàn tất. Rừng
sa mộc với 120 gốc cao ngút hùng dũng hiện tại cũng được vận chuyển từ Quảng
Tây đến.
Khu dinh thự vừa là nơi vị vua Mèo sống vừa là pháo đài bất
khả chiến bại của ông. Tường thành được xây cao vút, xung quanh có quân lính
bảo vệ, cách mỗi đoạn tường lại được bố trí các lỗ châu mai và chòi canh thế
nên khó có thể đột nhập từ phía ngoài.
Mái dinh được lợp toàn bộ bằng ngói ống và trang trí đĩa hoa văn chữ thọ |
Dinh nhà Vương rộng lớn được chia thành ba khu Tiền sinh,
Trung sinh và Hậu sinh, gồm nhà khách, phòng làm việc, phòng ngủ cho các thành
viên trong dòng họ, phòng ở của các gia nhân giúp việc và quân lính, nhà kho
lương thực, kho vũ khí. Đặc biệt, ở khu Hậu sinh có xây dựng riêng 2 kho bằng
đá phiến, mặt ngoài tường dày 1,4m, mặt trong dày 0,8m, bảo đảm đạn súng cối
hay bộc phá cũng không thể xâm phạm. Một kho cất giữ vàng, bạc châu báu; một
kho cất trữ thuốc phiện. Hai kho này được giao cho hai bà vợ cả và vợ hai giữ
chìa khóa.
Điểm đặc biệt trong dinh thự Vương Chính Đức là hình ảnh quả
anh túc chiếm vị trí nổi bật trong tất cả các chi tiết trang trí. Tất cả các
phiến đá kê cột nhà, những họa tiết trang trí trên đầu kèo nhà… đều được đẽo,
gọt, tiện thành hình quả anh túc.
Hình ảnh quả thuốc phiện đóng vai trò chủ đạo trong trang trí dinh thự vua Mèo |
Riêng hai phiến đá kê cột nhà ở khu vực Trung sinh là đắt
giá nhất, bởi sau khi mài nhẵn, chúng được dùng những đồng bạc hoa xòe đánh
bóng loáng, biến đá trắng thành màu đồng thau, gần như màu quả thuốc phiện đã
phơi khô. Để làm được mỗi phiến đá kê cột nhà này, vua Mèo đã mạnh tay chi ra
từ 800 đến 900 đồng bạc hoa xòe.
Phù điêu hoa cúc chạm gỗ trên cửa |
Năm 1928, Vua Khải Định đã ban cho Vương Chính Đức một bức
hoành phi đại tự có 4 chữ "Biên chính khả phong" cùng thẻ bài và
mũ mão đại thần, chính thức công nhận quyền lực họ Vương ở chốn biên thùy.
Cũng kể từ đó, người Mông gọi ông là Chính Vương, xem ông như
"Vua Mèo" thực thụ.
Vương Chính Đức được vua Khải Định ban cho bức hoành phi đại tự đề 4 chữ “Biên chính khả phong” |
Phần mộ của Vương Chính Đức, theo như di nguyện của ông,
được đặt phía sau đỉnh núi hình tam giác nhọn, nhìn thẳng vào mặt trước dinh
thự, nơi quanh năm gió lộng, mây mù vấn vít. Có lẽ ông muốn khi mình ra đi rồi
vẫn có thể dõi theo cuộc sống của con cháu và sự nghiệp của dòng tộc. Phần mộ
lớn nhất, nằm ngay dưới hàng cây sa mộc trước cửa dinh thự là mộ của mẹ Vương
Chính Đức, được làm bằng đá, khắc công phu, cỏ mọc um tùm tươi tốt. Theo quan
niệm của người Mông, phần mộ phải có nhiều cây cỏ mọc, càng sum suê thì con
cháu càng được “lộc” của tổ tiên để phát triển.
Trước khi, một số hậu duệ của họ Vương vẫn sinh sống trong
dinh thự, như từ khi khu tư dinh được Nhà nước xếp hạng di tích kiến trúc nghệ
thuật cấp quốc gia thì con cháu họ chuyển ra sống ở các khu nhà quanh đó. Theo
cách mạng, người Mông nơi đây cũng không còn trồng cây thuốc phiện mà chuyển
sang canh tác cây ngô. Từ cây ngô, đồng bào nấu thành một loại rượu đặc sản của
cao nguyên giá lạnh, đó là rượu ngô rát bỏng đầu lưỡi, chảy tới đâu ấm lòng tới
đó. Khu dinh thự ghi dấu một thời vàng son của vị vua Mèo chốn biên ải trở
thành điểm du lịch hấp dẫn thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước tới
thăm, để tìm hiểu về một công trình nghệ thuật độc đáo cũng như biết thêm về
một thời kỳ lịch sử bi tráng của đồng bào các dân tộc vùng cao Hà Giang.
Đông đảo khách tham quan ở khu di tích Nhà Vương |
Bài: Phượng Diễm, Ảnh: Phạm Jeff, P.D.
0 bình luận :
Đăng nhận xét